Từ cuối năm 2016 đến nay, ngành thép nước nhà bị các thị trường thế giới “soi” rất kỹ và đưa ra nhiều biện pháp phòng vệ thương mại.
Thống kê của Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công thương) cho biết, thế giới có hơn 1.500 vụ việc liên quan đến phòng vệ thương mại, riêng ngành thép chiếm tới 30%. Riêng thép Việt đã và đang “dính” đến 27 vụ việc, chiếm khoảng 21%.
Ngành thép thời gian qua đã có sự tăng trưởng khá, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên, theo nhận định của Bộ Công Thương, gia tăng xuất khẩu thép trong bối cảnh hiện nay đã đặt ra nhiều khó khăn với Việt Nam. Hiện thế giới đang trong tình trạng dư thừa công suất, ngoài vấn đề cạnh tranh với thị trường thì các sản phẩm thép của Việt Nam sẽ phải đối mặt với số lượng các biện pháp hạn chế thương mại ngày càng nhiều. Hiện tại, thép là ngành hàng của Việt Nam bị kiện phòng vệ thương mại nhiều nhất với 27 vụ việc, chiếm tỷ trọng khoảng 21%.
Một rào cản phổ biến mà ngành thép Việt Nam rất hay phải đối mặt thời gian gần đây là các vụ kiện đến từ thị trường xuất khẩu lớn như Liên minh châu Âu, Canada, Mỹ, Indonesia,… Một số quốc gia khác cũng đang xem xét khởi kiện thép Việt như Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan… Theo ông Nguyễn Phương Nam, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, việc ngành thép những năm gần đây liên tục bị các quốc gia nhập khẩu đưa ra những biện pháp phòng vệ thương mại cho thấy, ngành thép vẫn khá bị động.
Đáng lưu ý, theo ông Nam, trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung ngày càng có dấu hiệu căng thẳng hơn, ngành thép nước nhà hầu như khó nhìn thấy cơ hội, nếu có thì cũng rất ít và không bền vững. Có thể thấy, ngành thép Việt đang đối diện với khá nhiều khó khăn ở phía trước, đặc biệt là sự “soi xét” của các quốc gia nhập khẩu và sau đó liên tục là những tin không thuận lợi về việc các nước nhập khẩu áp các loại thuế chống bán phá giá.
Ngành thép Việt đang đối diện với khá nhiều khó khăn.
Có ý kiến cho rằng, sở dĩ ngành thép Việt bị kiện nhiều hơn là do DN thép tập trung phát triển một vài lợi thế nhất định trong toàn chuỗi. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, lý do này là chưa hoàn toàn chính xác. Phân tích về nhận định này, ông Sưa cho biết, ngành công nghiệp thép Việt Nam phát triển rất nhanh. Bên cạnh việc thỏa mãn cho nền kinh tế trong nước thì ngành thép cũng có một phần sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài với tốc độ khá tốt.
Gần đây, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch nổi lên mạnh mẽ, đặc biệt khi Mỹ đã sử dụng đánh thuế vào những sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng của nước Mỹ, với mức thuế xuất là 25% đối với các sản phẩm thép. Bên cạnh đó cũng có nhiều nước sử dụng công cụ phòng vệ thương mại để áp dụng với sản phẩm thép của Việt Nam xuất khẩu sang nước họ. Và biện pháp các nước thường xuyên sử dụng là chống bán phá giá.
Hiện nay, để bảo vệ ngành thép trong nước, các quốc gia thường xuyên sử dụng công cụ chống bán phá giá để khởi xướng những việc điều tra áp thuế. Mục đích chính của vấn đề này là ngăn cản số lượng thép xuất khẩu của Việt Nam tràn vào thị trường nước họ. Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cũng cho biết thêm, vì thép là ngành nguyên liệu đầu vào cho rất nhiều ngành công nghiệp, do đó, sản phẩm thép luôn bị các nước chú ý đến việc phát triển cũng như bảo vệ nền sản xuất thép trong nước của họ. Điều này tất yếu gây ra những rào cản, khó khăn cho cộng đồng DN xuất khẩu thép.
Theo nhận định của một số chuyên gia trong ngành, thời gian tới, việc xuất khẩu sẽ tiếp tục gặp phải những khó khăn nhất định bởi các nước nhập khẩu sẽ tiếp tục khởi xướng điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với các sản phẩm thép của Việt Nam. Bởi vậy nên lời khuyên của giới chuyên gia đối với cộng đồng DN đó là các DN cần nỗ lực trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ, đặc biệt chú trọng tới thị trường trong nước để giữ vững ổn định sản xuất.
Số liệu thống kê cho biết, chỉ số thép/người của Việt Nam chỉ đang ở mức trung bình của thế giới với khoảng 240kg/người vào năm 2016, thấp hơn Thái Lan (285kg/người), Malaysia (325kg/người) và Singapore (506kg/người). Điều này chứng tỏ ngành thép Việt Nam vẫn còn dư địa để phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Nguồn tin: Congluan